Truyền thống gia đình hình thành từ kinh tế nông nghiệp. Nói đến truyền thống là nhắc nhở nền nếp được noi theo liên tục, qua những biến cố lịch sử, lắm khi người noi theo lại không ngờ mình đã… theo truyền thống. Nói chung trong cả nước, truyền thống vẫn giống nhau nhưng vì hoàn cảnh phân tán, tình hình gia đình giàu nghèo, khả năng liên lạc, nên có khác về chi tiết. Nam bộ sớm bị đô thị hóa, lại xáo trộn về chiến tranh, thời kỳ xây dựng lại gặp nạn khan hiếm nhà đất. Về già ai cũng muốn trở về truyền thống xưa, nhưng nhà chật làm sao bày biện bàn thờ tổ tiên? Ngày giỗ, khó nhắc nhở con cháu nên qui tụ lại cho ấm cúng. Dịp cưới hỏi, lắm khi đại gia đình đoàn tụ để chung vui. Khi gặp ma chay, việc nhắn tin, khả năng tài chính lắm khi khó khăn đối với vài người trong thân tộc. Thêm trường hợp gia đình có người di tản, chỉ là nhắn tin muộn màng, gởi ảnh, gởi bằng video. Ngay trong địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, giữa các quận nội thành và ngoại thành, ta vẫn thấy có khác biệt. Lại có ảnh hưởng của gia đình bên chồng, bên vợ, về tôn giáo (đạo Phật, đạo Thiên Chúa…), ít ai còn giữ được truyền thống mà mình mơ ước. Ngày Tết, đoàn tụ gia đình ngay trong nội thành là việc khó: sinh kế, đi tỉnh làm việc, ốm đau, phương tiện, quà cáp. Khó tìm đất để chôn cất, thái độ của gia tộc đối với cái hũ đựng cốt ra sao? Nghi thức tụng niệm, mời nhà sư làm tuần lắm khi tùy từng người. Ngày giỗ lắm khi dời lại cho đúng ngày chủ nhật để bà con rảnh rang đoàn tụ.
Vấn đề khái quát, xin dựa vào Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính mà khẳng định vài nét.
Cha mẹ
Nói chung gọi cha mẹ là ba, má không còn gọi là tía, má (tía là tiếng Hoa). Gọi bố, lắm khi là đùa cợt thân mật. Đặt tên cho con không còn kiêng kỵ như trước. Vì tiếp xúc với thành thị, thêm ảnh hưởng chiến tranh, ai cũng muốn con cái mình mang tên đẹp. Tên con trai gợi sự dũng mãnh, phấn đấu, vì vậy lắm khi đặt là Hùng, Dũng, tên con gái gợi vẻ đẹp như Thúy, Hoa, Đào. Thời trước 1945, ở nhà quê thường kiêng cữ, sợ ma quỉ quấy rối nên đặt tên con với tiếng xấu xí: Chuột, Vẹo, Đen. Hoặc sợ vì đông con nên nuôi không xuể, đặt là út rồi Út Nhất, Út Nhì hoặc Thôi, Hết. Nay những tên xấu không còn nữa. Gọi cha mẹ bằng anh chị đề phòng ma quỷ, con ranh con lộn, hoặc gọi cha mẹ là cậu mợ gần như không còn thông dụng.
Vai trò của người con gái trong gia đình: Trên lý thuyết, xã hội ta theo phụ hệ, nhưng ở Nam bộ, người con gái, người đàn bà nắm khá nhiều quyền hạn. Mẹ sinh đẻ, cha đau ốm, việc săn sóc thuộc về người vợ, hoặc con gái, nếu không con gái thì con dâu. “Phu tử tùng tử” cũng là lý thuyết. Trong thực tế, cha mất mẹ cầm quyền, trừ trường hợp đặc biệt mẹ nhường quyền cho con. Mua bán nhà đất, cưới vợ gả chồng cho con cái, trường hợp vắng cha vẫn là người mẹ quyết định. Vì kinh tế thị trường, lắm khi người đàn bà có hoàn cảnh làm kinh tế gia đình, hoặc kinh doanh: chơi hụi hè, mở tiệm tạp hóa, cho vay đặt nợ. Con mà được mẹ yêu thương, nhất định được chia phần gia tài nhiều hơn mấy đứa khác. Ngày giỗ trong gia đình, người mẹ, hoặc người vợ có phận sự nhắc nhở và quyết định cách tổ chức lớn hay nhỏ.
Nề nếp này vô cùng quan trọng, và được chứng minh thời kháng Pháp, chống Mỹ: lắm khi người vợ, người mẹ đôn đốc chồng con lo việc nước. Lại còn kiên trì thăm nuôi chồng con khi bị bắt, bị tù. Gương kiên nhẫn của người phụ nữ chờ chồng đi tập kết là bằng cớ. Khi đặt tên cho con, người chồng luôn tham khảo ý kiến của vợ. Việc bố trí bàn thờ thánh thần và Phật trong nhà thường là người đàn ông nhường quyền cho vợ. Người đàn bà nói chung săn sóc phần kinh tế gia đình để người đàn ông rảnh rang lo việc ngoài xã hội.
Đặt tên con, nói chung, tránh trường hợp vô tình trùng với tên của ông bà hoặc bà con thuộc vai vế lớn hơn.
Riêng việc cưới hỏi, người Việt tỏ ra khắt khe so với người Pháp, hoặc người Hoa. Quá bốn đời không nhận ra liên hệ huyết thống thì mới được cưới hỏi. Khác họ, dễ cưới nhau, nhưng bà con bên dì (con của hai chị em) vẫn cấm kỵ. Cùng chung một họ, nhưng ở địa phương khác nhau, dễ cưới hỏi nhau.
Quan hệ anh em
Thông thường, anh chị em một cha, khác cha, khác mẹ nhưng vẫn được đối xử bình đẳng, không phân biệt trừ ngoại lệ. Lắm khi, đối với người ngoài gia đình, anh em khác cha, khác mẹ luôn che giấu sự khác biệt ấy, ai quá tò mò thì mới nói sự thật.
Đối với chị, em gái, người anh hoặc em trai luôn kính nể, tránh sỗ sàng, chửi mắng, rầy la thô tục. Lắm khi trong việc chia gia tài, dành ưu tiên cho chị hoặc em gái.
Cha hoặc mẹ mất, sự gắn bó giữa anh em dòng họ là nguyên tắc biểu lộ sự hiếu thảo. Đã vài trường hợp anh chị em mắng chửi tục nhau, thậm chí không cho làm lễ di quan khiến dư luận phê phán nghiêm khắc, thậm chí người hàng xóm dầu ở địa vị xã hội khiêm tốn vẫn có thể công khai phản đối.
Đám giỗ
Lễ giỗ trong gia đình là lệ khó bỏ qua được, ngay những năm đầu mới giải phóng, dường như hạn chế nhưng vẫn duy trì. Từ mấy năm qua lắm khi lại rình rang.
Theo nguyên tắc, nếu ở gần nhau, anh em thường tổ chức lễ giỗ cha hoặc mẹ hoặc ông bà ở nhà nào rộng rãi nhất, có người trưởng thượng đầy đủ uy tín với anh em. Tuy hoàn cảnh, anh chị em gom góp công sức; dịp tốt để bà con anh em gặp mặt nhau, vui vẻ trong một buổi. Góp công sức vẫn là quan trọng hơn tiền bạc. Ngoài người của gia đình còn bạn bè quen biết, thân thuộc. Thời xưa, con gái không được làm đám giỗ cha mẹ mình ở nhà chồng. Ngày nay, người chồng thường vui vẻ làm lễ giỗ cho cha mẹ vợ tại nhà mình.
Thờ cúng ông bà phải chăng là dạng tôn giáo dân gian? Nhiều nhà nghiên cứu đã bàn cãi. Đã bảo là tôn giáo (đạo thờ cúng ông bà) thì ai là chức sắc, như trường hợp thượng tọa trụ trì ở chùa hoặc linh mục cai quản giáo xứ bên đạo Thiên Chúa. Dứt khoát đã có câu trả lời: người con trưởng nam, đúng hơn là người giữ gìn hương hỏa (được cha mẹ chỉ định hoặc anh em ủy quyền) mặc nhiên là chủ lễ, với quyền hạn gần như tuyệt đối:
– Quy định thời điểm cử hành (10 giờ hoặc 12 giờ… tùy hứng).
– Mời khách quan trọng đến dự, có thể là bạn thân của người quá cố, người mà gia đình chịu ơn lúc trước.
– Có thể đưa thực đơn cúng giỗ (cúng với món ăn mà người quá cố ưa thích, lắm khi rẻ tiền).
– Thắp nhang trước tiên để khai mạc lễ giỗ, sau đó, anh em mới thắp nhang sau. Có thể là người trưởng nam nghèo túng, thất học, nhưng anh em dòng họ vẫn phải tôn trọng và kính nể.
– Ra lệnh chấm dứt lễ giỗ và dọn mâm cỗ.
Trên nguyên tắc, hương hỏa là ngọn đèn (thếp nến) luôn cháy ngày đêm và nén hương trên bàn thờ tiêu biểu cho sự trường tồn của dòng họ. Ngày nay, đơn giản hơn, thắp ngọn đèn trứng vịt, đốt nhang từ ngọn đèn, không được tùy tiện dùng hộp quẹt cá nhân mà đốt.
Quan hệ với xã hội
Ở nông thôn ngày xưa, cùng làng xóm thì giúp đỡ nhau, nay cuộc sống đã đô thị hóa, chịu ảnh hưởng đô thị, vai trò của mỗi gia đình vẫn còn quan trọng:
– Tham gia công tác của Mặt trận Tổ quốc, hội Chữ Thập đỏ, xóa đói giảm nghèo, giúp đỡ gia đình neo đơn.
– Nhà bên cạnh có đám tang, nên bày tỏ sự cảm thông, không gây ồn ào, ví dụ như vặn máy thu thanh, băng nhạc lớn tiếng.
– Dầu ngày thường ít giao thiệp, cũng nên đến viếng tang gia.
– Dịp cưới hỏi, có thiệp mời nên cố gắng tham dự. Thường là tham dự phần tiệc tùng, chung vui. Lễ cưới đã cử hành trong vòng thân mật riêng của gia đình ấy rồi.
– Tránh đưa trẻ con còn nhỏ tham dự tiệc cưới của người không thân thiết: gây ồn ào, chiếm một phần ăn.
– Tham dự đám tang của người quen biết là việc tế nhị. Nên xem có nhận phúng điếu bằng tiền hay không, xem phong tục của gia đình có tang. Đối với người lớn tuổi hoặc bà con xa gần thì từ đôi ba năm qua, lễ lạy trước quan tài trở thành quen thuộc. Đây là động tác biểu lộ sự thành kính, an ủi gia đình khổ chủ thay cho lời nói. Nghi thức thông thường là:
– Lạy hai cái, hiểu ngầm sẽ trở lại khi di quan.
– Lạy bốn lạy, hiểu ngầm là không trở lại.
– Lắm khi lạy ba lạy, thay vì bốn, hiểu ngầm cha mẹ mình còn sống, chừa một lạy cho cha mẹ mình.
– Người đồng tuổi, cứ lạy, người quá cố nhỏ hơn một tuổi, vẫn lạy. Thắp nhang, nếu nhang bốc cháy ngọn, không được dùng miệng thổi cho tắt, phải quơ qua quơ lại, sợ ô uế.
– Nếu tang gia bố trí bàn thờ Phật ở bên cạnh, trước tiên nên cắm nhang trên bàn Phật.
Đối với trong gia đình
Ngày nay, nhà cửa, lắm khi chật chội, không có phòng khách riêng biệt, việc tiếp khách lắm khi luộm thuộm.
Vì cần gặp nhau đột xuất, lắm khi trong nhà có khách riêng rẽ của cha mẹ, của con, gây mất trật tự, khó chào hỏi nhau. Con cái phải chào hỏi với bạn bè của cha mẹ với quần áo tương đối chỉnh tề. Lúc cha mẹ nói chuyện với khách, trẻ con không nên đùa giỡn.
Việc ăn ở chung đụng dễ gây phức tạp về tình cảm. Anh em ruột nhưng có người giàu, người nghèo. Nhà ở tương đối rộng và có tiện nghi là nhu cầu cấp bách, gần như nan giải trong vài năm tới. Đổ lỗi cho hoàn cảnh chính trị (thời kỳ quá độ…) cho giáo dục nhà trường là một việc, nhưng tự bản thân người trong gia đinh cần cẩn thận, nhân nhượng nhau. Khách của chủ nhà cần phải giữ lễ độ, ăn nói đàng hoàng trong trường hợp chủ nhà có con gái đang lớn. Tránh ăn nhậu bừa bãi, mời bạn bè về nhà để thù tạc, khi rượu vào thì lại hò hét, lắm khi vặn nhạc ầm ĩ, cho đó là sang trọng, lại ói mửa, chê bai bạn bè vắng mặt. Hoặc chủ nhà chở về nhà khi quá say, quậy phá ăn nói thô tục. Con cái bị ảnh hưởng lây.
Hàng tiêu dùng là động cơ gây phức tạp trong gia đình. Con cái trong gia đình lắm khi ngành nghề khác nhau. Cha mẹ khó theo dõi sinh hoạt của con cái. Lắm cơ quan xí nghiệp đòi hỏi nhân viên phải son phấn, quần áo thời trang. Lại còn tiệc tùng, ăn sinh nhật bạn bè cơ quan, đi tham quan mà cha mẹ khó theo dõi, chỉ tin cậy vào con cái. Nạn thất nghiệp lại tác động, ở thành phố, những người thất nghiệp, làm ra ít tiền bạc mặc nhiên bị đánh giá thấp.
Quảng cáo thương mại, những màn kịch, ca nhạc trên truyền hình, trong điện ảnh dễ gây tác động xấu, làm phá vỡ khuôn khổ gia đình xưa, mặc nhiên đánh tan truyền thống văn hóa. Áo quần, bàn ghế, phương tiện di chuyển, giường ngủ, cầu vệ sinh trở thành bậc thang giá mới? Đời sống đang cải thiện “từng chặp, lắm khi bấp bênh. Phải chăng truyền thống văn hóa của gia đình Việt Nam chỉ còn bảo lưu và phát triển ở những gia đình “tiểu tư sản”? Bằng không, chỉ là sự nuối tiếc. Phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng dễ lưu manh hóa con người. Cha không nuôi con cái ở mức “tiểu tư sản” thì khó dạy con. Nhưng nhắc nhở vẫn là chuyện của người lớn, nhất là người lớn tuổi. Lúc còn trẻ, làm ra tiền dễ dàng, con cái chưa nhận được vấn đề, xem cha mẹ là đạo đức giả. Đến khi lớn tuổi, con cái sẽ nhớ.
-Theo Sơn Nam-